Hồng Nhung
Administrator
- Bài viết
- 43
- Được Like
- 1
Nguyên tắc nền tảng
- Một đơn vị sẽ công khai thông tin để đảm bảo cho người dùng báo cáo tài chính có thể đánh giá được bản chất và ảnh hưởng tài chính của các hoạt động kinh doanh mà đơn vị đã đăng ký và môi trường kinh tế mà đơn vị đó hoạt động.
Phạm vi
- Chuẩn mực IFRS 8 này sẽ được áp dụng cho:
- Các báo cáo tài chính riêng của một đơn vị kinh tế:
i. có công cụ nợ hoặc công cụ vốn chủ sở hữu được giao dịch trên một thị trường niêm yết (một sàn giao dịch chứng khoán trong nước hoặc nước ngoài hoặc một thị trường OTC, bao gồm các thị trường địa phương và khu vực), hoặc
ii. nộp hoặc đang trong quá trình nộp các báo cáo tài chính của đơn vị cho Ủy ban chứng khoán hoặc tổ chức quản lý tương tự với mục đích phát hành bất kỳ công cụ huy động vốn nào trên thị trường niêm yết, và
ii. nộp hoặc đang trong quá trình nộp các báo cáo tài chính của đơn vị cho Ủy ban chứng khoán hoặc tổ chức quản lý tương tự với mục đích phát hành bất kỳ công cụ huy động vốn nào trên thị trường niêm yết, và
- các báo cáo tài chính hợp nhất của một tập đoàn với công ty mẹ:
i. có công cụ nợ hoặc công cụ vốn chủ sở hữu được giao dịch trên một thị trường niêm yết (một sàn giao dịch chứng khoán trong nước hoặc nước ngoài hoặc một thị trường OTC, bao gồm các thị trường địa phương và khu vực), hoặc
ii. nộp hoặc đang trong quá trình nộp các báo cáo tài chính của đơn vị với Ủy ban chứng khoán hoặc tổ chức quản lý tương tự với mục đích phát hành bất kỳ công cụ huy động vốn nào trên thị trường niêm yết
3. Nếu một đơn vị không buộc phải áp dụng chuẩn mực này chọn công khai thông tin về các bộ phận, đơn vị đó sẽ không mô tả thông tin dưới dạng thông tin bộ phận.
4. Nếu một báo cáo tài chính bao gồm cả báo cáo tài chính hợp nhất của một tập đoàn thuộc phạm vi điều chỉnh của chuẩn mực này cùng với báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ, thì thông tin bộ phận chỉ được yêu cầu lập trong báo cáo tài chính hợp nhất.
Các bộ phận hoạt động
5. Một bộ phận hoạt động là một thành phần của một đơn vị kinh tế:
ii. nộp hoặc đang trong quá trình nộp các báo cáo tài chính của đơn vị với Ủy ban chứng khoán hoặc tổ chức quản lý tương tự với mục đích phát hành bất kỳ công cụ huy động vốn nào trên thị trường niêm yết
3. Nếu một đơn vị không buộc phải áp dụng chuẩn mực này chọn công khai thông tin về các bộ phận, đơn vị đó sẽ không mô tả thông tin dưới dạng thông tin bộ phận.
4. Nếu một báo cáo tài chính bao gồm cả báo cáo tài chính hợp nhất của một tập đoàn thuộc phạm vi điều chỉnh của chuẩn mực này cùng với báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ, thì thông tin bộ phận chỉ được yêu cầu lập trong báo cáo tài chính hợp nhất.
Các bộ phận hoạt động
5. Một bộ phận hoạt động là một thành phần của một đơn vị kinh tế:
- Tham gia vào các hoạt động kinh doanh mà qua đó nó có thể có được các khoản doanh thu và phát sinh các khoản chi phí (bao gồm cả doanh thu và chi phí liên quan đến các giao dịch với các thành phần khác của cùng một đơn vị kinh tế).
- Có kết quả hoạt động thường xuyên được cân nhắc bởi Người điều hành giúp họ ra các quyết định về phân bổ các nguồn lực và đánh giá hiệu quả hoạt động của đơn vị đó, và
- Thông tin tài chính của đơn vị có sẵn cho người dùng.
Một bộ phận hoạt động có thể tham gia vào các hoạt động kinh doanh nhưng vẫn chưa có doanh thu, ví dụ các hoạt động khởi nghiệp có thể là bộ phận hoạt động trước khi có được doanh thu/thu nhập.
6. Không phải mọi bộ phận của đơn vị kinh tế là một bộ phận hoạt động hoặc một phần của bộ phận hoạt động. Ví dụ, một trụ sở công ty hoặc một phòng ban chức năng không có được các khoản doanh thu hoặc có thể có những khoản doanh thu/thu nhập nhưng chỉ là khoản thu bất thường so với các hoạt động của đơn vị sẽ không phải là bộ phận hoạt động. Với mục đích của chuẩn mực này, một quỹ lợi ích sau khi nghỉ việc của một đơn vị kinh tế không được gọi là các bộ phận hoạt động.
7. Thuật ngữ “Người điều hành” xác định một chức năng, không nhất thiết là một người quản lý với chức danh cụ thể. Chức năng đó nhằm phân bổ các nguồn lực cho các bộ phận và đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận hoạt động của một đơn vị kinh tế. Thông thường Người điều hành của một đơn vị kinh tế là giám đốc điều hành hoặc giám đốc hoạt động, nhưng cũng có thể là ban giám đốc với nhiều thành viên.
8. Đối với nhiều đơn vị, ba đặc điểm của các bộ phận hoạt động được mô tả trong đoạn 5 xác định rõ ràng các bộ phận hoạt động của đơn vị đó. Tuy nhiên, một đơn vị có thể lập các báo cáo theo đó các hoạt động kinh doanh được trình bày theo nhiều cách thức khác nhau. Nếu Người điều hành sử dụng nhiều tập hợp thông tin bộ phận, những nhân tố xác định có thể hợp thành một tập hợp các thông tin của một bộ phận hoạt động của đơn vị, bao gồm bản chất của các hoạt động kinh doanh, người quản lý chịu trách nhiệm cho các hoạt động đó, và thông tin trình bày phục vụ cho Người điều hành.
9. Nói chung, một bộ phận hoạt động có một người quản lý chịu trách nhiệm trực tiếp và duy trì liên hệ thường xuyên với Người điều hành để thảo luận về các hoạt động, các kết quả tài chính, các dự báo, hoặc các kế hoạch tương lai cho từng bộ phận. Thuật ngữ Quản lý bộ phận xác định một chức năng và không nhất thiết là một người quản lý với một chức danh cụ thể. Người điều hành có thể là người quản lý cho một hoặc một số bộ phận hoạt động. Một người quản lý có thể là quản lý bộ phận cho nhiều hơn một bộ phận hoạt động. Nếu các đặc điểm đã mô tả ở đoạn 5 áp dụng cho nhiều hơn một tập hợp các thành phần của một tổ chức nhưng chỉ có một tập hợp mà tại đó các Quản lý bộ phận giữ trách nhiệm, thì tập hợp các thành phần đó thiết lập nên các bộ phận hoạt động.
10. Các đặc điểm giới thiệu trong đoạn 5 có thể áp dụng cho hai hoặc nhiều hơn các tập hợp với sự giao thoa về thành phần mà tại đó người quản lý chịu trách nhiệm. Cấu trúc đó đôi lúc được coi như là hình thức ma trận của tổ chức. Ví dụ, trong một số đơn vị, một số nhà quản lý chịu trách nhiệm cho các dây chuyền sản phẩm và dịch vụ toàn cầu, trong khi đó một số nhà quản lý khác chịu trách nhiệm về một khu vực địa lý nhất định. Người điều hành thực hiện đánh giá định kỳ về kết quả hoạt động của hai tập hợp thành phần, và thông tin tài chính có sẵn cho cả hai. Trong trường hợp đó, đơn vị sẽ xác định tập hợp thành phần nào thiết lập nên bộ phận hoạt động bằng cách đối chiếu với các nguyên tắc căn bản.
6. Không phải mọi bộ phận của đơn vị kinh tế là một bộ phận hoạt động hoặc một phần của bộ phận hoạt động. Ví dụ, một trụ sở công ty hoặc một phòng ban chức năng không có được các khoản doanh thu hoặc có thể có những khoản doanh thu/thu nhập nhưng chỉ là khoản thu bất thường so với các hoạt động của đơn vị sẽ không phải là bộ phận hoạt động. Với mục đích của chuẩn mực này, một quỹ lợi ích sau khi nghỉ việc của một đơn vị kinh tế không được gọi là các bộ phận hoạt động.
7. Thuật ngữ “Người điều hành” xác định một chức năng, không nhất thiết là một người quản lý với chức danh cụ thể. Chức năng đó nhằm phân bổ các nguồn lực cho các bộ phận và đánh giá hiệu quả hoạt động của các bộ phận hoạt động của một đơn vị kinh tế. Thông thường Người điều hành của một đơn vị kinh tế là giám đốc điều hành hoặc giám đốc hoạt động, nhưng cũng có thể là ban giám đốc với nhiều thành viên.
8. Đối với nhiều đơn vị, ba đặc điểm của các bộ phận hoạt động được mô tả trong đoạn 5 xác định rõ ràng các bộ phận hoạt động của đơn vị đó. Tuy nhiên, một đơn vị có thể lập các báo cáo theo đó các hoạt động kinh doanh được trình bày theo nhiều cách thức khác nhau. Nếu Người điều hành sử dụng nhiều tập hợp thông tin bộ phận, những nhân tố xác định có thể hợp thành một tập hợp các thông tin của một bộ phận hoạt động của đơn vị, bao gồm bản chất của các hoạt động kinh doanh, người quản lý chịu trách nhiệm cho các hoạt động đó, và thông tin trình bày phục vụ cho Người điều hành.
9. Nói chung, một bộ phận hoạt động có một người quản lý chịu trách nhiệm trực tiếp và duy trì liên hệ thường xuyên với Người điều hành để thảo luận về các hoạt động, các kết quả tài chính, các dự báo, hoặc các kế hoạch tương lai cho từng bộ phận. Thuật ngữ Quản lý bộ phận xác định một chức năng và không nhất thiết là một người quản lý với một chức danh cụ thể. Người điều hành có thể là người quản lý cho một hoặc một số bộ phận hoạt động. Một người quản lý có thể là quản lý bộ phận cho nhiều hơn một bộ phận hoạt động. Nếu các đặc điểm đã mô tả ở đoạn 5 áp dụng cho nhiều hơn một tập hợp các thành phần của một tổ chức nhưng chỉ có một tập hợp mà tại đó các Quản lý bộ phận giữ trách nhiệm, thì tập hợp các thành phần đó thiết lập nên các bộ phận hoạt động.
10. Các đặc điểm giới thiệu trong đoạn 5 có thể áp dụng cho hai hoặc nhiều hơn các tập hợp với sự giao thoa về thành phần mà tại đó người quản lý chịu trách nhiệm. Cấu trúc đó đôi lúc được coi như là hình thức ma trận của tổ chức. Ví dụ, trong một số đơn vị, một số nhà quản lý chịu trách nhiệm cho các dây chuyền sản phẩm và dịch vụ toàn cầu, trong khi đó một số nhà quản lý khác chịu trách nhiệm về một khu vực địa lý nhất định. Người điều hành thực hiện đánh giá định kỳ về kết quả hoạt động của hai tập hợp thành phần, và thông tin tài chính có sẵn cho cả hai. Trong trường hợp đó, đơn vị sẽ xác định tập hợp thành phần nào thiết lập nên bộ phận hoạt động bằng cách đối chiếu với các nguyên tắc căn bản.
Bài viết liên quan
Bài viết mới